THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG SINH VIÊN CẢ NƯỚC

GDVN-Mặc dù quy mô sinh viên tăng lên hàng năm, tuy nhiên số sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học qua các năm lại có chiều hướnggiảm.

Bạn đang xem: Thống kê số lượng sinh viên cả nước


*

Quy mô đào tạo đại học năm 2020, số liệu từ Niên giám thống kê năm 2021. Đồ họa: Doãn Nhàn

Số lượng các cơ sở giáo dục đại học

Theo số liệu, trong khoảng thời gian từ năm 2015-2020, nước ta đã có thêm 19 cơ sở giáo dục đại học mới được mở ra, trong đó 6 trường ngoài công lập và 13 trường công lập.

Giai đoạn từ 2015-2017, số lượng các cơ sở giáo dục đại học được mở mới tăng mạnh nhất (13 trường). Cụ thể: từ năm 2015-2017 có thêm 5 trường đại học ngoài công lập được mở ra, số trường đại học công lập được mở mới là 8 trường.

Giai đoạn từ năm 2017-2019 ít có sự biến động về số lượng các cơ sở giáo dục đại học. Trong 2 năm từ 2019-2020, có thêm 1 trường đại học ngoài công lập và 4 trường đại học công lập được thành lập.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang khẩn trương triển khai xây dựng quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2035 theo hướng thiết lập một hệ thống giáo dục đại học mở, công bằng, bình đẳng, chất lượng, hiệu quả và phục vụ nhu cầu học tập suốt đời; đáp ứng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, tăng cường ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước; bảo đảm đầu tư công bằng, khách quan, khoa học, công khai, minh bạch và hiệu quả, đồng thời là cơ sở huy động nguồn lực xã hội phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học.

Số lượng giảng viên

Về đội ngũ giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn từ 2015-2020, nhìn chung số lượng giáo viên có chiều hướng tăng lên, với số lượng khoảng hơn 1000 giảng viên được bổ sung mới mỗi năm.

Cụ thể năm 2015, tổng số giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học là 69,6 nghìn giảng viên, năm 2020 số giảng viên tăng lên là 76,6 nghìn giảng viên. Như vậy, trong vòng 6 năm, có thêm khoảng 7000 giảng viên được bổ sung vào các cơ sở giáo dục đại học.

Trong đó, số lượng giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập tăng thêm khoảng 4000 giảng viên, cơ sở giáo dục đại học công lập tăng thêm 3000 giảng viên.


Năm học 2022-2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chú trọng triển khai có hiệu quả Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học giai đoạn 2019 - 2030.

Số lượng sinh viên

Số sinh viên tại các cơ sở giáo dục đại học trong vòng 5 năm qua (từ năm 2015-2020) có sự biến động đáng kể. Nhìn chung, số lượng sinh viên có chiều hướng gia tăng, đột biến có giai đoạn từ 2017-2019 số lượng sinh viên giảm đáng kể.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê vào năm 2015, tổng số sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học (bao gồm cả công lập và ngoài công lập) là 1753,2 nghìn sinh viên. Đến năm 2020, số sinh viên tăng thêm khoảng 152,8 nghìn sinh viên, nâng tổng số sinh viên tại các cơ sở giáo dục đại học là 1906 nghìn sinh viên.

Tuy nhiên, năm 2018, số lượng sinh viên biến động giảm, theo thống kê chỉ có khoảng 1526,1 nghìn sinh viên. Từ năm 2018-2020, số lượng sinh viên bắt đầu có chiều hướng tăng trở lại.

Nhìn vào biểu đồ thống kê cho thấy số lượng sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập có sự tăng trưởng khá mạnh. Cụ thể, năm 2015, số lượng sinh viên tại các cơ sở này mới chỉ đạt 232,4 nghìn sinh viên, đến năm 2020 số lượng đã tăng lên 365,4 nghìn sinh viên (tăng 36,4%).

Số sinh viên tốt nghiệp

Mặc dù quy mô sinh viên tăng lên hàng năm, tuy nhiên số sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học (bao gồm công lập và ngoài công lập) qua các năm lại có chiều hướng giảm. Cụ thể, năm 2015, số sinh viên tốt nghiệp là 352,8 nghìn sinh viên, tuy nhiên năm 2020, số sinh viên tốt nghiệp chỉ có khoảng 242,4 nghìn sinh viên (giảm 11,04%).

Trong đó, số sinh viên tốt nghiệp tại cơ sở giáo dục đại học công lập giảm đáng kể. Năm 2015, tại các cơ sở giáo dục đại học công lập có khoảng 307,8 nghìn sinh viên, đến năm 2020 số sinh viên tốt nghiệp chỉ đạt 209 nghìn sinh viên (giảm 47,27%).

Các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập cũng có số lượng sinh viên tốt nghiệp giảm qua các năm mặc dù quy mô sinh viên vẫn tăng đều từng năm. Năm 2015, số sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập là 45 nghìn sinh viên, năm 2020 chỉ có 33,4 nghìn sinh viên (giảm 34,73%).

Cả nước có 3.326 cơ sở giáo dục mầm non, 685 cơ sở giáo dục phổ thông và 60 trường đại học tư thục/dân lập và 6 trường đại học 100% vốn nước ngoài.


Ngày 26/8, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn đã chủ trì Hội nghị Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 19 của Trung ương về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Được biết trong báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, Bộ GD&ĐT đã đánh giá nhiều nội dung, trong đó có vấn đề về đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo.

Xem thêm: Sách Phương Pháp Dạy Con Không Đòn Roi Rất Hiệu Quả, Hình Phạt Time

*

Theo thống kê từ Bộ GD&ĐT, năm học 2020-2021, cả nước có 4.077 cơ sở giáo dục ngoài công lập với gần 1,9 triệu học sinh, sinh viên. Ảnh: LHU.

4.077 cơ sở giáo dục ngoài công lập

Theo đó, Bộ GD&ĐT cho biết năm học 2020-2021, cả nước có 42.080 cơ sở giáo dục từ nhà trẻ, mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và các cơ sở giáo dục đại học.

Trong đó: 4.077 cơ sở giáo dục ngoài công lập (3.326 cơ sở giáo dục mầm non, 685 cơ sở giáo dục phổ thông, 60 trường đại học tư thục/dân lập, 6 trường đại học 100% vốn nước ngoài) với gần 1,9 triệu học sinh, sinh viên ngoài công lập.

Theo Niên giám thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo tháng 5/2021, đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, hiện có 4.011 cơ sở giáo dục ngoài công lập trong tổng số 42.080 cơ sở đạt 9,5%, với xấp xỉ 1,5 triệu trẻ em mầm non và học sinh học tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ngoài công lập trong tổng số 22,6 triệu học sinh đạt 6,8%.

Khi đánh giá kết quả đẩy mạnh tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, Bộ GD&ĐT cho biết trong giai đoạn 2011-2015, bộ có 8 đơn vị tự chủ chi thường xuyên.

Đến năm 2022, Bộ GD&ĐT đã có 26 đơn vị tự chủ tài chính (tăng 18 đơn vị so với giai đoạn trước), trong số 109 đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo công lập và đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập, đạt tỷ lệ 23,9% số đơn vị tự chủ tài chính so với mục tiêu tại Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII là có 10% đơn vị tự chủ tài chính, vượt 13,9%... chỉ tăng dưới một lần lương.

Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo.

Kết quả đạt được nêu trên do Bộ GD&ĐT quyết liệt trong công tác rà soát, chỉ đạo các đơn vị thực hiện mục tiêu Nghị quyết 19 đã đề ra. Đồng thời, một phần nguyên nhân xuất phát từ kinh phí cấp cho Bộ GD&ĐT hàng năm giảm mạnh, giảm sâu hơn so với mức giảm chung của các ngành, lĩnh vực khác.

Nhiều đơn vị đã có nhiều đổi mới cách thức quản lý, đối mới hoạt động để mở rộng nguồn thu, cải thiện thu nhập, tăng thu nhập cho người lao động, trích lập các quỹ khen thưởng, phúc lợi chăm lo cho người lao động.

Đây là một cơ chế thực sự đổi mới so với cơ chế trước đây dựa chủ yếu vào kinh phí ngân sách nhà nước cấp, tạo điều kiện để các đơn vị chủ động hơn trong việc tổ chức sắp xếp lao động, bố trí và tuyển dụng lao động theo nhu cầu.

Các đơn vị đã tự chủ động cân đối tài chính cho hoạt động, chi tiêu rất tiết kiệm so với chế độ cho phép, tuy nhiên một số đơn vị chưa thực hiện tốt.

Đối với đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên, được quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho người lao động không quá 3 lần lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định, nhưng tổng hợp báo cáo của các đơn vị trực thuộc Bộ GD&ĐT tạo hàng năm cho thấy thu nhập bình quân chung của cán bộ, công nhân viên chức chỉ tăng dưới 1 lần lương.

Đánh giá về quản lý biên chế sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, Bộ GD&ĐT cho biết đã báo cáo với Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện và giải pháp sử dụng đối với đội ngũ giáo viên hợp đồng và giáo viên, nhân viên ngành giáo dục; phối hợp với Bộ Nội vụ thống kê thực trạng đội ngũ giáo viên, nhân viên trong các năm học (từ năm học 2017-2018 đến năm học 2021-2022), nhằm đưa ra giải pháp trong việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng viên chức ngành Giáo dục.

Bộ GD&ĐT tạo đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tiến hành tổng rà soát hiện trạng đội ngũ giáo viên các cấp và xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.

Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Bộ Nội vụ thẩm định và công nhận kết quả thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp của giảng viên năm 2017, năm 2019, năm 2020 đối với giảng viên đạt kết quả, nhằm đảm bảo chế độ chính sách và quyền lợi cho đội ngũ giảng viên.

Xây dựng và triển khai kế hoạch về tổ chức kỳ thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên từ hạng II lên hạng I năm 2018 để đánh giá, lựa chọn được đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn của chức danh giáo viên hạng I các cấp học trung học cơ sở, trung học phổ thông.

Qua đó, cấp có thẩm quyền xem xét, bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên hạng I và có kế hoạch quản lý, sử dụng, thực hiện các quyền lợi cho đội ngũ này; khắc phục những bất hợp lý về cơ cấu chức danh nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục phổ thông công lập và phù hợp với quy định hiện hành về quản lý viên chức. Qua đó, khuyến khích đội ngũ giáo viên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác.

Bộ GD&ĐT tạo cũng đã tổ chức kiểm tra, tham gia đoàn thanh tra về tuyển dụng, sử dụng viên chức ở các địa phương (Thái Bình, Thái Nguyên, Đắk Lắk…). Trong đó, có nội dung về tinh giản biên chế; trả lời hàng trăm đơn thư của các tổ chức, cá nhân cũng như ý kiến của đại biểu Quốc hội về chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

Bộ GD&ĐT xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành từ năm học 2017-2018. Hiện tại hệ thống dữ liệu này đã được các cơ sở giáo dục cập nhật, báo cáo.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.