TIẾNG VIỆT CẢI CÁCH LỚP 1 - SÁCH TIẾNG VIỆT LỚP 1 CẢI CÁCH

Trước nhận xét gay gắt về một số bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt lớp 1, bộ sách Cánh diều như: "bịa đặt", "dạy trẻ con thói lười nhác và thủ đoạn"... GS Nguyễn Minh Thuyết - chủ biên sách cho hay: "Chúng tôi đã làm rất kỹ".Bạn đang xem: Tiếng việt cải cách lớp 1

Bộ sách này của nhóm tác giả Nguyễn Minh Thuyết (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) – Hoàng Hòa Bình – Nguyễn Thị Ly Kha – Lê Hữu Tỉnh biên soạn và được NXB ĐH Sư phạm TP.HCM ấn hành (2020).

Bạn đang xem: Tiếng việt cải cách lớp 1

Một số bài tập đọc trong cuốn Tiếng Việt 1 của bộ Cánh diều đã được đưa ra "mổ xẻ" . Bài tập đọc về lừa và ngựa bị một số ý kiến cho là dạy trẻ con thói lười nhác, thủ đoạn.

Một bài tập đọc bị chê

Bài đọc Ve và gà thì bị chỉ trích rằng bịa, La Phông-ten không có truyện này.

 

Hay như bài tập đọc Cua, cò và đàn cá được cho là... dạy trẻ con nói dối.

 

Còn bài đọc "Họp lớp" cũng bị nhận xét rằng trẻ con sẽ chẳng hiểu gì, vì lớp 1 chưa có khái niệm về chuyện này.

 

Đã có những bình luận khá nặng lời về các bài đọc này. Thậm chí, một phụ huynh đã viết thư gửi tới chủ biên của bộ SGK Cánh diều - GS Nguyễn Minh Thuyết, cho rằng", những nội dung như thế này xuất hiện trong sách khoa lớp 1 là rất đáng buồn".

"Thánh nhân có câu "Nhân chi sơ, tính bản thiện". Những đứa bé được dạy những điều như câu chuyện hai con ngựa (trong sách lớp 1, cải cách có nhiều bài như thế) thì mục đích của nền giáo dục là gì?

Chúng ta dạy trẻ con để phòng cái ác, cái xấu hay là dạy chúng làm cái xấu, cái ác từ khi còn bé. Hay là chúng ta dạy trẻ con những kỹ năng để tồn tại trong cái xã hội đương đại ở Việt Nam từ khi còn bé?..." - vị phụ huynh này viết trong thư.

"Chúng tôi đã làm rất kỹ"

GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết đã tiếp nhận những nhận xét đó, nhưng nhóm biên soạn có quan điểm của mình. Ông Thuyết cũng khẳng định: "Chúng tôi đã làm rất kỹ".

Với bài tập đọc “Hai con ngựa” bị cho rằng là câu chuyện bịa, ông Thuyết cho biết bài tập đọc này được viết lại (phỏng theo) truyện "Ngựa đực và ngựa cái" của Lev Tolstoy, nhà văn Nga, do Thúy Toàn dịch, in trong cuốn "Kiến và bồ câu". Cốt truyện được giữ nguyên. Nhưng truyện dài nên phải chia làm 2 phần, có đánh số 1, 2, phần 2 được học ngay sau phần 1.

Về nhân vật, tác giả phải sửa "ngựa đực, ngựa cái" thành "ngựa tía, ngựa ô" vì học sinh đến tuần đó chưa học các vần "ưc", "ai" và cũng vì không muốn nói chuyện "đực, cái". Trong truyện của Lev Tolstoy, ngựa cái lười biếng xui ngựa đực không đi cày, nếu chủ quật roi thì tung vó đá lại. Ngựa đực làm theo lời ngựa cái. Bác nông dân thấy ngựa đực ương bướng, bèn đóng ngựa cái vào vai cày. Những chi tiết này đã được tác giả sửa lại cho nhẹ nhàng nhưng căn bản diễn biến câu chuyện vẫn như truyện của L. Tolstoy.

“Về ý nghĩa, một nhà văn lớn như Lev Tolstoy không bao giờ viết một truyện tầm phào hoặc phản giáo dục. Ý nghĩa của câu chuyện này là: xui người khác làm bậy thì chính mình sẽ chịu hậu quả” – ông Thuyết giải thích.

Bài tập đọc "Ve và gà" cũng được viết lại (phỏng theo) truyện "Ve và kiến" của La Fontaine, nhà văn Pháp. Truyện dài nên cũng phải chia làm 2 phần, có đánh số 1, 2, dạy liền nhau. Tác giả SGK phải đổi nhân vật "kiến" thành "gà" vì đến lúc này học sinh chưa học vần ""iên", nhưng cốt truyện giữ nguyên.

“Các bài đọc trên chỉ sửa tên nhân vật cho phù hợp với các chữ, các vần học sinh đã được học và chưa được học nhưng đã được tác giả thận trọng ghi là "phỏng theo" và đưa tên người kể lại để chịu trách nhiệm.

Những người viết bài trên mạng để chỉ trích sách của chúng tôi cố ý chỉ chụp ảnh phần 1, cắt nó ra khỏi phần 2 để người đọc cả tin tin vào những lời mà họ nói” – ông Thuyết thông tin.

Một số ý kiến thắc mắc khi nhóm tác giả sách sử dụng từ “nhá” – nhá cỏ, nhá dưa chứ không sử dụng từ “nhai” trong bài tập đọc “Thỏ thua rùa”. Các ý kiến này cho rằng nhóm tác giả đã sử dụng phương ngữ, học sinh không hiểu.

“Theo chương trình thì đến phần có bài tập đọc này học sinh chưa học đến vần “ai”, nên tác giả sách sử dụng từ “nhá”. Từ này hoàn toàn không phải là phương ngữ mà là từ phổ thông, có trong Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê.

“Trong sách cũng có một số từ địa phương như ba – má. Sách dạy cho học sinh cả nước nên tác giả xây dựng 2 tuyến nhân vật: Học sinh sống ở các tỉnh phía Bắc thì gọi bố gọi mẹ, học sinh sống ở các tỉnh phía Nam thì gọi ba gọi má...”.

Ông Thuyết cũng đưa quan điểm về ý nghĩa của các bài đọc. “Có thắc mắc rằng lấy đâu ra chuyện chó xù ra ngõ gặp sư tử. Nếu cứ theo tư duy kiểu này, thì các câu chuyện cổ tích, thần thoại phải bỏ đi hết hay sao?

Hay bài đọc Cua, cò và đàn cá bị cho là dạy học sinh khôn lỏi. Đây là bài đọc theo truyện dân gian Việt Nam. Mà truyện dân gian vốn dĩ sâu sắc lắm, khai thác như thế nào là do tâm địa mỗi người. Người này cho rằng bài này dạy học sinh khôn lỏi, nhưng người kia lại rút ra được bài học cảnh giác. Bây giờ người xấu nhiều, dạy trẻ con phải cảnh giác không thừa” – ông Thuyết nói.

“Hay như “nhà nghỉ” cũng là một từ Tiếng Việt, trẻ con có quyền biết nghĩa của từ này, sao lại cứ cho rằng nó xấu?”.

Về bài học "Chữ số 4" với ví dụ về "Bốn cái làn" được lan truyền trên mạng xã hội những ngày qua, ông Thuyết khẳng định không có trang nào trong sách có nội dung như vậy.

Giảng cho học sinh hiểu là nhiệm vụ của giáo viên

Ông Thuyết cũng cho biết các bài đọc là để học sinh ôn chữ, ôn vần. “Chúng ta không nên lo học sinh không hiểu, bởi dạy cho học sinh hiểu là nhiệm vụ của giáo viên chứ các em không phải tự mình làm việc với quyển SGK. Giáo viên sẽ giảng cụ thể cho học sinh ý nghĩa của từ ngữ trong các bài đọc”.

Khẳng định rằng các bài đọc đều đã được nhóm biên soạn cân nhắc, viết đi viết lại, ông Thuyết lý giải thêm về các ngữ liệu được đưa vào SGK, có mấy cách dẫn văn bản đọc, viết: “trích” - bớt chữ của văn bản để phù hợp với thời lượng học. Ở lớp 1 không sử dụng nhiều dạng này vì có quy định về số lượng chữ cho mỗi bài đọc; “theo” – dẫn lại tác phẩm và có sửa chữa: “phỏng theo” – dựa theo ý tứ của tác phẩm gốc để viết lại.

“Những chữ, từ đã học được lặp đi lặp lại qua các bài đọc để học sinh không quên chữ. Khi tập huấn cho giáo viên, chúng tôi cũng đã nhấn mạnh vào yêu cầu phân hóa đối với học sinh. Ví dụ với những học sinh tiếp thu nhanh thì từ a, từ b có thể học trong 2 tiết, với các em chậm hơn thì học trong 3 tiết. Trong phân bổ chương trình có tới 88 tiết dự trữ (mềm), là những tiết ôn tập, góc sáng tạo, đọc sách báo… Nếu học sinh đọc viết chưa thông thì cứ lấy số tiết dự trữ này ra để dạy cho các em.

Ngay trong một lớp, khả năng của học sinh cũng khác nhau. Nếu bài đọc quá ngắn, học sinh khá giỏi sẽ không phát triển được hết khả năng. Như vậy, với học sinh yếu hoặc gặp khó khăn, các em chỉ cần đọc được 1, 2 câu có các chữ hoặc vần mới học. Sau một thời gian, những học sinh này hoà được vào tiến độ chung, các em sẽ đọc được cả bài như các bạn khác.

Chương trình Tiếng Việt trước đây có 10 tiết/ tuần, nay là 12 tiết/tuần. Trong khi yêu cầu về mức độ đạt được vẫn như trước thì tăng tiết chính là để giảm tải chứ không phải quá tải, phụ huynh không nên lo lắng mà tạo áp lực cho con em mình” – ông Thuyết khẳng định. 

Gần 30 năm dạy học sinh tiểu học, trải qua 3 bộ sách, giáo viên đánh giá chương trình Tiếng Việt lớp 1 hiện tại nặng nhất.


Tôi bắt đầu sự nghiệp cầm phấn năm 1993. Trong gần 30 năm công tác, tôi trải qua hai lần thay sách, tức tôi đã dạy Tiếng Việt lớp 1 theo 3 chương trình.

Năm nào, phụ huynh cũng than con Tiếng Việt lớp 1 vất vả. Năm nay, mọi việc còn khó khăn hơn.

*

Ở nhiều bài, học sinh phải học đến 4 vần nên khó nhớ. Ảnh: Cô P.M.

Thời gian học âm, vần rút ngắn xuống còn 15 tuần

Từ quá trình dạy học theo 3 chương trình, tôi thấy trước năm 2002, chương trình đơn giản. Sách phù hợp với trẻ thời đó. Khi xã hội phát triển, trẻ sẽ thấy nội dung như vậy nhàm chán.

Vì thế, lần thay sách vào năm học 2002-2003 phù hợp với sự phát triển. Tôi đánh giá đây là chương trình tốt, phù hợp khả năng tiếp nhận của trẻ. Học sinh tiếp thu chậm cũng đạt trung bình, ai tiếp thu nhanh sẽ đạt khá, giỏi.

Trong gần 30 năm công tác, tôi thấy chương trình Tiếng Việt lớp 1 hiện tại nặng nhất - Cô P.M.

Nhưng với sách hiện tại, các con nhanh nhẹn mới đạt trung bình khá trở lên. Nếu con tiếp thu chậm, cả cô, trò, phụ huynh cực kỳ vất vả.

Trong gần 30 năm công tác, tôi thấy chương trình Tiếng Việt lớp 1 hiện tại nặng nhất. Sách mới đang đi nhanh, vượt quá năng lực học của trẻ 6 tuổi. Điều này dễ nhận thấy từ nội dung sách và thực tế tại lớp học.

Trước đây, đến tuần 24, học sinh mới học hết vần. Sang tuần 25, các con mới luyện đọc văn bản khoảng 4-5 câu hoặc khổ thơ ngắn.

Nhưng với sách Tiếng Việt bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, hết tuần 15, tức chưa hết học kỳ 1, học sinh phải học hết âm, vần, đọc lưu loát đoạn văn.

Xem thêm: Top Các Shop Quốc Tế Uy Tín Trên Shopee Nên Ghé Thăm, Hàng Quốc Tế

Để dồn lên như vậy, số lượng âm, vần trong mỗi bài tăng. Những năm trước, các con học tối đa 2 âm, vần. Năm nay, số lượng tăng lên 3, thậm chí 4. Ví dụ, năm ngoái, âm “em”, “êm” được xếp vào một bài, “im”, “um” rơi vào bài khác. Với sách giáo khoa hiện tại, các con học cả 4 vần trong một bài.

Phần viết cũng được đẩy nhanh. Ở chương trình cũ, sang tuần 25, giáo viên mới cho học sinh hạ cỡ chữ từ 2 ly xuống 1 ly. Năm nay, các con bắt đầu luyện viết chữ nhỏ từ tuần 16.

Không những “đi nhanh”, nội dung còn tương đối rối. Năm trước, bài học bài bản, rất dễ đọc, dễ nhớ. Các tiếng mới thường chỉ thay đổi thanh điệu. Ví dụ, khi học chữ “đ”, học sinh học tiếng “đa” rồi đến tiếng “đá”, “đà”, “đã”...

Năm nay, việc dạy tiếng ngang hơn, khó. Như trong bài 8, học chữ “d”, các con phải quen với các tiếng khác nhau như “da”, “dế”... Nhiều từ không gần gũi khiến trẻ khó nhớ.

Cách đọc cũng có sự thay đổi. Khi đánh vần, các con đọc cả chữ “c” và “k” là “cờ”. Nhưng khi viết, trẻ lại phải phân biệt nên dễ nhầm.

Ngoài ra, học sinh phải tiếp xúc với những câu dài hơn. Năm ngoái, các con thường luyện đọc câu 3-5 tiếng. Năm nay, câu dài ra, như “Dưới gốc đa, các bạn chơi dung dăng dung dẻ”.

Trong khi đó, nhiều trẻ còn ngọng nghịu, nói chưa lưu loát. Nhiều con đọc vẹt, đọc theo các bạn khác chứ không hiểu hay nhớ được. Việc đọc nhiều, không nhớ hết khiến các con sợ Tiếng Việt.

Qua 4 tuần đầu, tôi lo quá. Học sinh học vất vả nhưng nhớ không tốt. Học sinh khá, giỏi còn đỡ. Những trẻ trung bình theo rất khó khăn dù đã được kèm cặp thêm vào giờ ra chơi.

Năm ngoái, đến tầm này, 3/4 học sinh lớp tôi đọc tốt. Năm nay, chỉ khoảng 1/5 học sinh đọc tạm được.

Tôi thấy càng cải cách, việc học với trẻ càng khó. Bộ bảo giảm tải song theo hướng dẫn ra đề kiểm tra cuối kỳ, đề thi cho học sinh lớp 1 mà đến tận hai mặt giấy A4. Đề như vậy là dài, khó với trẻ.

*

Ở bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, học sinh phải học xong âm, vần trong 15 tuần. Ảnh: NXB Giáo dục Việt Nam.

Đừng so sánh với nước ngoài

Trước khi dạy, giáo viên được tập huấn chương trình mới, nghiên cứu 5 bộ để rút ra ưu, nhược điểm rồi tiến hành lựa chọn.

Ở môn Tiếng Việt, tôi đánh giá bộ Cánh diều phù hợp nhất, tiến độ vừa phải, không nặng nề. Song vì một vài lý do, trường tôi lựa chọn bộ Kết nối tri thức với cuộc sống.

Đương nhiên, sách này cũng có ưu điểm như mỗi tuần, học sinh có một tiết ôn lại các âm, vần đã học trong bài, kèm câu chuyện ngắn, hay.

Tuy nhiên, với bộ này, không chỉ học trò vất vả mà giáo viên cũng mệt mỏi không kém. Với mỗi bài, tôi soạn đến 5 trang giáo án.

Quá trình tập huấn cũng không rõ ràng. Giáo viên cần là với mỗi bài học, họ đưa ra bước mẫu, chuẩn để giáo viên nắm cơ bản, có sườn rồi mới điều chỉnh cho phù hợp tình hình thực tế.

Trong khi đó, giảng viên tập huấn không sát, thiếu thực tế thành ra giáo viên gặp khó khăn khi triển khai.

Hơn nữa, có nhiều khó khăn, phải vào dạy thật, giáo viên mới vỡ ra được. Chúng tôi vẫn đề đạt những vướng mắc để sau mỗi đợt, người viết sách giải đáp thắc mắc, hướng dẫn phần đó nên truyền đạt như thế nào.

Đương nhiên, tôi hiểu việc sửa sách không dễ. Nhưng tôi hy vọng họ sẽ căn cứ những góp ý của giáo viên để điều chỉnh nhịp độ ở sách cho các lớp 2, 3, 4, 5, phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta.

Tôi nói điều này vì trong quá trình tập huấn, các thầy thường nói nước ngoài dạy thế này, thế kia. Nhưng họ chưa căn cứ vào sự khác biệt của nước ta với nước khác.

Ở những nước mà các thầy đề cập, mỗi lớp chỉ có 20 học sinh nhưng có đến 2 giáo viên phụ trách. Trong khi đó, ở nước ta, một giáo viên phụ trách lớp học đông hơn nhiều.

Năm nay, lớp tôi có 50 học sinh. Con số này vào năm ngoái là 63, có năm lên 65 trẻ. Muốn không học sinh nào bị bỏ lại phía sau, giáo viên phải chờ đợi cả 50 trẻ.

Việc chờ 50-60 trẻ làm xong các việc như lấy sách, lấy bảng ra khác với chờ 20 trẻ. Do đó, chúng ta không thể so việc dạy học với nước khác được.

Trong khi đó, với học sinh lớp 1, giáo viên còn phải rèn nề nếp. Đây là điều bắt buộc. Trong thời gian đầu, tôi phải dành thời gian để hướng dẫn các con quen với việc cô ra hiệu lệnh bằng thước, giờ bảng, úp bảng, đọc trơn, đánh vần vào lúc nào.

Tận bây giờ, các con vẫn khóc, phải dỗ trước khi vào lớp. Nhưng trong giờ học, cô giáo không dỗ được, chỉ dừng 1-2 phút, tiết học bị kéo dài, ảnh hưởng đến tiết sau.

*

Việc cho trẻ đọc câu dài khiến trẻ sợ Tiếng Việt. Ảnh: Nguyễn Phương.

Trẻ "học mà chơi" là không ổn

Nói thật, việc dạy lớp 1 rất vất vả và dễ gây ức chế. Các con học lâu nhớ nhưng nhanh quên. Không ít phụ huynh gọi điện thắc mắc tại sao con đã học hai buổi ở trường mà vẫn không nhớ.

Trong khi đó, mỗi ngày, các con học hai tiết Tiếng Việt, khoảng 80 phút, tức cô giáo chỉ dành cho mỗi trẻ hơn một phút.

Tiếng Việt lại có nhiều đồ, từ sách giáo khoa, vở viết đến bảng con, đồ dùng học tập. Trong lớp, cô trò quay như chong chóng.

Trong việc dạy trẻ con học chữ, người lớn càng dồn, con càng sợ. Phụ huynh “lên gân” bao nhiêu, con áp lực, chán học bấy nhiêu - Cô P.M.

Nhiều trẻ không được người nhà hướng dẫn, lại chậm chạp. Trong giờ học, con loay hoay mãi với cục phấn. Những lúc như vậy, tôi bực nhưng không biết làm sao được.

Chọn nghề “gõ đầu trẻ”, tôi hiểu với trẻ con, chúng ta cần kiên nhẫn và luôn vui vẻ. Nếu giáo viên áp lực, trẻ càng sợ và không học được.

Nhiều khi, tôi cảm thấy may mắn vì mình rất yêu trẻ con. Nên dù việc nặng nề, cả ngày nói đến khản cổ nhưng vẫn giữ được sự vui vẻ để các con đến trường một cách nhẹ nhàng, tươi vui.

Dù vậy, tôi vẫn mong được thấu hiểu hơn. Một số người cho rằng giáo viên đang đặt yêu cầu cao với trẻ, nhất là ở phần viết đẹp. Tuy nhiên, nếu trẻ không viết chuẩn ở lớp 1, lên lớp 2, các con viết rất xấu, khó đọc.

Ngoài ra, Bộ GD&ĐT quy định không ra bài tập về nhà cho học sinh đã học hai buổi ở trường. Nhưng tôi vẫn phải hướng dẫn phụ huynh kiểm tra con. Nếu con thành thạo rồi, họ dạy con thêm một chút. Nếu con chưa được, phụ huynh kèm thêm, tùy từng cháu một.

Với chương trình như hiện tại, học sinh lớp 1 “học mà chơi, chơi mà học”, chỉ học ở trường là không ổn.

Tiếng Việt chỉ có hai tiết mỗi ngày. Trong đó, con có 7 phút luyện viết vào bảng, 15 phút viết vở. Ở lớp, thời gian như vậy là vừa phải. Nhưng thời lượng như vậy không nhiều, trẻ dễ quên. Lớp 50 học sinh, may ra, chỉ 10 trẻ nhớ.

Do đó, tôi rất cần đến sự hỗ trợ từ phụ huynh. Tôi mong các bậc cha mẹ kiên nhẫn, kèm cặp con từ từ, đi từng bước một. Họ chỉ cần dạy con đơn giản, giúp con nhớ âm, vần đã học trong ngày, không cần buộc trẻ học thêm từ mới.

Đương nhiên, phụ huynh không có nghiệp vụ sư phạm nên không tránh được các hạn chế. Song cha mẹ đồng hành, làm được đến đâu, con hưởng lợi đến đó.

Từ những chuyện phụ huynh bế tắc, căng thẳng vì dạy con, tôi chỉ mong họ hiểu trong việc dạy trẻ con học chữ, người lớn càng dồn, con càng sợ. Phụ huynh “lên gân” bao nhiêu, con áp lực, chán học bấy nhiêu.

Nếu dạy lâu, không hiệu quả, họ nên dừng lại, chuyển sang phương pháp khác hoặc hỏi giáo viên để được hướng dẫn cách dạy trẻ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.